Douglas A-26 Invader
Chiếc Douglas A-26 Invader (có tên là B-26 từ năm 1948 đến năm 1965) là một kiểu máy bay cường kích và máy bay ném bom hai động cơ được chế tạo bởi hãng Douglas Aircraft trong Thế Chiến II và cũng hoạt động trong những cuộc đối đầu chủ yếu trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Một số lượng giới hạn của phiên bản cải biến chuyên biệt được sử dụng trong tác chiến cho đến năm 1969. Chiếc A-26 cuối cùng được cho nghỉ hưu khỏi hoạt động của Không lực Vệ binh Quốc gia vào năm 1972 và được tặng cho Bảo tàng Quốc gia Hàng không và Không gian. Thiết kế và phát triểnChiếc A-26 có một kiểu thiết kế khá khác thường đối với một kiểu máy bay ném bom tấn công vào thời kỳ đầu những năm 1940, với chỉ một phi công (chia sẻ tính chất này cùng kiểu máy bay de Havilland Mosquito của Không quân Hoàng gia Anh và các kiểu khác). Chiếc máy bay được thiết kế bởi Edward Heinemann, Robert Donovan và Ted R. Smith.[3] Chiếc nguyên mẫu Douglas XA-26 (số hiệu 41-19504) bay chuyến bay đầu tiên tại Mines Field, El Segundo, vào ngày 10 tháng 7 năm 1942 do phi công thử nghiệm nổi tiếng Benny Howard điều khiển.[4] Các chuyến bay thử nghiệm cho thấy nó có tính năng bay xuất sắc và điều khiển dễ dàng, nhưng nó có những vấn đề về việc làm mát động cơ dẫn đến việc thay đổi thiết kế nắp động cơ và tháo bỏ trục cánh quạt trên những chiếc máy bay sản xuất, cũng như là phải cải tiến bánh đáp mũi sau nhiều lần bị gảy khi thử nghiệm. Chiếc A-26 ban đầu được chế tạo dưới hai cấu hình khác biệt: Phiên bản A-26B có một mũi kín chứa sáu hoặc tám khẩu súng máy M2 Browning 0,50 in; trong khi phiên bản A-26C có mũi bằng kính, được gọi tên chính thức là mũi "ném bom" (Bombardier nose) trang bị bộ ngắm ném bom Norden và được sử dụng trong việc ném bom chính xác ở độ cao trung bình. Mũi máy bay của phiên bản A-26C còn chứa hai súng máy M-2 gắn cố định, sau này được thay thế bằng các bộ súng máy gắn dưới cánh hoặc súng máy gắn trong cánh. Sau khi sản xuất được khoảng 1.570 chiếc, ba súng máy được bổ sung trên mỗi cánh, cũng trùng hợp với việc giới thiệu kiểu mũi kín gắn tám súng máy trên phiên bản A-26B, tạo nên một số cấu hình có đến mười bốn khẩu súng máy 0,50 inch gắn cố định bắn hướng ra phía trước. Bộ phận mũi của phiên bản A-26C có thể tráo đổi với mũi chiếc A-26B hay ngược lại trong vòng vài giờ thao tác, nên có thể thay đổi cấu hình và vai trò hoạt động. Kiểu "nóc buồng lái phẳng", sau khi sản xuất được 820 chiếc, được đổi thành loại "vỏ sò" vào cuối năm 194 giúp cải thiện đáng kể tầm nhìn.[5][6] Bên cạnh vị trí của phi công chính, vị trí của phi công phụ truyền thống giờ đây không có bộ điều khiển bay, nhưng dành cho một thành viên đội bay đảm trách vai trò hoa tiêu và ném bom, vốn sẽ chuyển vị trí sang mũi máy bay trong giai đoạn ném bom của phi vụ. Trên phiên bản A-26C, hoa tiêu còn đảm trách việc nạp đạn cho khẩu súng trước mũi. Một vài chiếc phiên bản A-26C được trang bị bộ điều khiển bay kép, với một số bộ phận có thể tháo ra được trong khi bay để lấy chỗ di chuyển sang phần mũi. Trong đa số các phi vụ, có thêm một thành viên đội bay thứ ba ngồi trong khoang súng phía sau và điều khiển từ xa các tháp súng trên lưng và dưới bụng. Người này chỉ có thể di chuyển đến buồng lái ngang qua khoang chứa bom khi nó rỗng.[7] Lịch sử hoạt độngThế Chiến II![]() Hãng Douglas bắt đầu giao những chiếc kiểu A-26B phiên bản sản xuất từ tháng 8 năm 1943. Invader bắt đầu tham gia hoạt động cùng Không lực 5 tại Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương vào ngày 23 tháng 6 năm 1944, khi chúng ném bom các hòn đảo do Nhật Bản chiếm giữ gần Manokwari.[8] Chúng bắt đầu được gửi đến Châu Âu vào tháng 9 năm 1944 và được bố trí đến Không lực 9, và được đưa vào chiến đấu hai tháng sau đó vào ngày 19 tháng 11. Hoạt động sau chiến tranhBộ chỉ huy Không quân Chiến lược Không quân Hoa Kỳ đã sử dụng những chiếc B-26 (phiên bản RB-26) từ năm 1949 đến năm 1950. Hải quân Hoa Kỳ cũng sử dụng một số lượng nhỏ máy bay trong các phi đội đa dụng dùng để kéo mục tiêu giả và nhiều mục đích chung. Tên gọi của Hải quân cho kiểu máy bay này là JD-1 và JD-1D cho đến năm 1962, khi chiếc JD-1 được đổi tên thành UB-26J và kiểu JD-1D được đổi thành DB-26J. Chiến tranh Triều TiênNhững chiếc Invader đã thực hiện phi vụ ném bom đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên vào ngày 29 tháng 6 năm 1950 khi chúng ném bom một sân bay thuộc ngoại vi Bình Nhưỡng. Những chiếc Invader đã ghi được thành tích phá hủy 38.500 xe cộ, 406 đầu máy tàu hỏa, 3.700 toa xe vả bảy máy bay đang đậu trên mặt đất. Vào ngày 14 tháng 9 năm 1951, Đại úy John S. Walmsley Jr đã tấn công một đoàn tàu vận tải. Khi những khẩu súng của ông bị kẹt đạn, ông đã dùng đèn pha chiếu sáng cho đồng đội tiêu diệt mục tiêu. Walmsley bị bắn rơi và đã được truy tặng Huân chương Danh Dự. Những chiếc Invader cũng đã thực hiện phi vụ ném bom cuối cùng của Không quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến này chỉ 24 phút trước khi hiệp định đình chiến được ký kết vào ngày 27 tháng 6 năm 1953.[9] Tổng cộng đã có 228 chiếc B-26 bị mất trong chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Đông Dương![]() Trong những năm 1950, các liên đội ném bom thuộc Không quân Pháp (Armée de l'Air) bao gồm GB (Groupe de Bombardement) 1/19 Gascogne và GB 1/25 Tunisia đã sử dụng những chiếc B-26 do Không quân Mỹ cho mượn trong Chiến tranh Đông Dương. Những chiếc Douglas B-26 Invader đặt căn cứ tại Sân bay Cát Bi (Hải Phòng) đã hoạt động bên trên bầu trời Điện Biên Phủ vào tháng 3 và tháng 4 năm 1954 trong sự kiện bao vây Điện Biên Phủ. Trong giai đoạn này, một kế hoạch sử dụng hàng loạt những chiếc B-26 của Không quân Mỹ đặt căn cứ tại Philippines để chống lại pháo hạng nặng của Việt Minh đã được Bộ tham mưu Liên quân Mỹ và Pháp vạch ra như là Chiến dịch Vulture, nhưng sau đó bị các chính phủ có liên quan hủy bỏ. Vài chiếc B-26 đã bị bắn rơi tại Điện Biên Phủ bởi pháo cao xạ của lực lượng Việt Minh. Hoạt động cùng Không quân Hoa Kỳ tại Đông Nam Á![]() ![]() Những chiếc B-26 đầu tiên đến khu vực Đông Nam Á được bố trí tại Căn cứ Takhli, Thái Lan vào tháng 12 năm 1960. Những chiếc máy bay không mang phù hiệu này hoạt động dưới sự bảo trợ của Cục Trung ương Tình báo Mỹ (CIA), nhanh chóng được bổ sung thêm bởi 16 máy bay: 12 chiếc B-26 phiên bản B và C cùng bốn chiếc RB-26C trong Chiến dịch Mill Pond. Nhiệm vụ của tất cả những chiếc máy bay này là hỗ trợ Chính phủ Hoàng gia Lào chống lại lực lượng Pathet Lào. Những hậu quả của Vụ xâm nhập Vịnh Con Heo khiến cho không có phi vụ chiến đấu nào được thực hiện, cho dù những chiếc RB-26C tiếp tục hoạt động tại Lào cho đến cuối năm 1961. Những chiếc máy bay này sau đó hoạt động tại Nam Việt Nam trong Kế hoạch Farm Gate.[10] Một sự bố trí những chiếc B-26 khác duy nhất được biết đến tại Lào trước khi triển khai những chiếc B-26K/A-26A, là việc bố trí hai chiếc RB-26C được cải biến đặc biệt để trinh sát ban đêm, được bố trí đến Lào từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1962 trong Kế hoạch Black Watch. Những chiếc máy bay này được rút ra từ dự trữ của Kế hoạch Farm Gate, và được hoàn trả sau khi hoàn tất các nhiệm vụ.[11] Những chiếc máy bay xuất phát tại Lào đã tham gia vào giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam trong lực lượng Không quân Hoa Kỳ, nhưng được mang phù hiệu của Nam Việt Nam như là một phần của Kế hoạch Farm Gate. Mặc dù kế hoạch này sử dụng những chiếc B-26 phiên bản B, C, và RB-26C, nhiều chiếc máy bay trong thực tế được hoạt động dưới tên gọi RB-26C, cho dù chúng vẫn còn có khả năng chiến đấu.[12] Trong năm 1963, hai chiếc RB-26C được gửi sang Căn cứ Clark tại Philippines để được cải biến, mặc dù không có những hệ thống bay đêm như những cải biến dành cho kế hoạch Black Watch. Hai chiếc máy bay được hoàn trả từ Kế hoạch Black Watch trở về Kế hoạch Farm Gate sau đó được đặt tên là RB-26L để phân biệt chúng với các máy bay RB-26C được cải biến khác, và được bố trí đến Kế hoạch Sweet Sue.[11] Những chiếc B-26 trong Kế hoạch Farm Gate hoạt động chung với các máy bay T-28 Trojan vốn là những chiếc máy bay cường kích hàng đầu vào thời đó, cho đến khi cả hai loại máy bay được thay thế bằng những chiếc A-1 Skyraider.[13] Những chiếc B-26 được rút khỏi hoạt động từ năm 1964 sau khi xảy ra hai tai nạn liên quan đến giảm sức chịu đựng khung cánh máy bay. Để đáp ứng việc này, hãng On Mark Engineering tại Van Nuys, California được Không quân chọn để nâng cấp rộng rãi những chiếc Invader cho vai trò chống nổi dậy. On Mark đã cải biến 40 chiếc Invader lên tiêu chuẩn mới B-26K Counter Invader, bao gồm việc nâng cấp động cơ, chế tạo lại cánh và các thùng nhiên liệu đầu chót cánh để được Liên đội Air Commando 1 đưa ra sử dụng. Vào tháng 5 năm 1966, chiếc B-26K được đặt lại tên là A-26A do những lý do chính trị và được bố trí tại Thái Lan để giúp cắt đứt việc tiếp liệu dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Sau đó còn có hai chiếc được cải biến trang bị hệ thống cảm biến hồng ngoại FLIR (Forward Looking Infrared) trong Kế hoạch Lonesome Tiger, như là một phần của Chiến dịch Shed Light.[14] Vụ xâm nhập Vịnh Con HeoVào tháng 4 năm 1961, những chiếc B-26 được cung cấp từ dự trữ quân sự của Mỹ đã được những người Cuba lưu vong sử dụng trong Vụ xâm nhập Vịnh Con Heo nhưng bị thất bại.[15] Phi Châu trong thập niên 1960Những phi công đánh thuê của Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA), có thể là những người Cuba tị nạn, đã lái những chiếc Invader chống lại nhóm phiến loạn "Simba" trong Sự kiện Congo vốn được Cuba, Trung Quốc và Xô Viết hỗ trợ. Không quân Bồ Đào Nha đã sở hữu những chiếc Invader để sử dụng chúng tại Angola. Nước Cộng hòa Biafra ly khai (tồn tại một thời gian ngắn từ năm 1967 đến năm 1970, là một phần của Nigeria) sử dụng hai chiếc B-26 được vũ trang trong Nội chiến Nigeria vào năm 1967, và được lái bởi Jan Zumbach cùng một số khác. Các phiên bản![]() Hầu hết trong tổng số 2.452 chiếc A-26/B-26 Invader được sản xuất thuộc các phiên bản A-26B và A-26C đời đầu.
Các nước sử dụng![]()
Đặc điểm kỹ thuật (A-26B-60-DL Invader)![]() ![]() Đặc tính chung
Đặc tính bay
Vũ khí
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nội dung liên quan![]() Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Douglas A-26 Invader. Máy bay liên quanMáy bay tương tựTrình tự thiết kếA-23 - A-24 - A-25 - A-26 - A-27 - A-28 - A-29 Danh sách liên quanInformation related to Douglas A-26 Invader |
Portal di Ensiklopedia Dunia