Đại Nam thực lục (chữ Hán: 大南寔錄) là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vuanhà Nguyễn. Đại Nam thực lục gồm 584 quyển, viết bằng chữ Hán thể văn ngôn và ghi chép các sự kiện lịch sử tới năm 1925 (không bao gồm vua Bảo Đại).[1]
Đại Nam thực lục là bộ sử liệu quan trọng của triều Nguyễn. Nó là nguồn tham khảo chính cho các bộ sách sử của Cao Xuân Dục (Quốc triều chính biên toát yếu) và Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược).
Phần thứ hai là Đại Nam thực lục chính biên (chữ Hán: 大南寔錄正編) (gồm 487 quyển), viết về triều đại các vuanhà Nguyễn, là phần chính yếu của bộ biên niên sử này.
Đại Nam Thực lục Chính biên ghi chép các sự kiện lịch sử từ khi Nguyễn Ánh làm chúa (1778) đến đời Đồng Khánh (1887), và sau này được viết thêm đến đời vua Khải Định (1925).
Cả hai phần Tiền biên và Chính biên của bộ sử Đại Nam thực lục được soạn bắt đầu từ năm 1821 (năm Minh Mạng thứ hai), sau 88 năm đến năm 1909 mới cơ bản hoàn thành (gồm toàn bộ phần Tiền biên và 6 kỷ đầu phần Chính biên).
Ngoài ra, Đại Nam liệt truyện tiền biên (大南列傳前編) và Đại Nam chính biên liệt truyện (大南正編列傳) cũng được xem là một phần của Đại Nam thực lục.
Đại Nam Thực lục Chính biên được phân thành 8 phần (kỷ), bao gồm:
Đệ nhất kỷ, gồm 61 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Gia Long (Nguyễn Ánh) 1778 - 1819.
Đệ nhị kỷ, gồm 221 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Minh Mạng 1820 – 1840.
Đệ tam kỷ, gồm 73 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Thiệu Trị 1841 – 1847.
Đệ tứ kỷ, gồm 71 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Tự Đức 1848 - 1883.
Đệ ngũ kỷ, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Kiến Phúc (1883 - 1885).
Đệ lục kỷ, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời các vua Hàm Nghi và Đồng Khánh (1885 - 1888).
Đệ lục kỷ phụ biên, gồm 29 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời các vua Thành Thái (19 quyển) và Duy Tân (10 quyển), trong thời kỳ (1889 - 1916).
Đệ thất kỷ, gồm 10 quyển, là biên niên lịch sử nhà Nguyễn đời vua Khải Định (1916 - 1925).
Trước năm 2003, bộ Đại Nam thực lục chính biên được lưu trữ tại Việt Nam chỉ gồm 6 phần từ đệ nhất kỷ đến đệ lục kỷ. Đến năm 2003, hai phần đệ lục kỷ phụ biên và đệ thất kỷ được ông Roger Ngô Thiết Hùng phát hiện ra là đang được lưu trữ tại trường Viễn Đông Bác cổParis, sau đó gửi tặng cho Viện Sử học Việt Nam bản sao chụp[6].
quan lại triều Gia Long vol. 28 gồm tiểu sử của Hà Hỉ Văn (Hé Xǐwén, cướp biển người Hoa), Nguyễn Văn Tồn (người gốc Khmer), Hà Công Thái (người Thượng), Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Behaine) và Vinh Ma Ly (Vinhly Malu, cướp biển người Xiêm Mã Lai)
Gia Long cho chuẩn bị viết bộ sử ngay sau khi tuyên bố làm hoàng đế. Nhưng nhiều tài liệu bị mất mát trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.[7] Năm 1811, Gia Long lại ban lệnh thu thập các tài liệu lịch sử.[8]
Mãi tới triều Minh Mạng, Quốc sử quán mới được thành lập (1821) để ghi chép biên niên sử hoàng gia. Nguyễn Văn Nhơn giữ chức Tổng tài, còn Trịnh Hoài Đức làm Phó tổng tài. Bản thảo bộ sử hoàn thành năm 1824.[9][10]
Năm 1830, một đoàn sứ giả Đại Nam sang chầu nhà Thanh, Trung Quốc. Đoàn sứ thần có một nhiệm vụ bí mật: tìm cách mang về bộ sử Minh thực lục. Dường như đoàn sứ giả Đại Nam đã mang về được bộ sử Minh triều vào năm 1833.[11] Tiếp đó, Minh Mạng cho viết lại bộ bản thảo trước kia dựa theo phong cách của Minh thực lục. Phiên bản mới của bộ sách sử được dâng lên cho nhà vua năm 1835. Là một người tinh thông Hán học, Minh Mạng không hài lòng với chất lượng của bộ sử; sau đó, nhà vua trực tiếp tu chỉnh nó.
Như một kiểu kiểm duyệt, các vị vua Đại Nam (gồm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức) trực tiếp tham gia vào việc viết và tu bổ bộ sách.[12] Quy định kiểm duyệt này tới sau khi vua Tự Đức mất mới chấm dứt.[13]
Về độ xác thực, vua Tự Đức chỉ dụ:
...Đã gọi là Thực lục, thì các việc cứ thực mà chép, cho có trước sau thứ tự, mới là tín sử.[14]
Các tác giả
Đại Nam thực lục tiền biên do các sử quan thời Minh Mạng và Thiệu Trị là: Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn (tức Võ Xuân Cẩn), Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt biên soạn.
Các bản in của Đại Nam thực lục được giữ trong triều đình và có ít người được tiếp cận. Bên cạnh các bản khắc in, cũng có một vài bản chép tay. Thời Pháp thuộc, Thực lục được chính quyền thực dân cho xuất bản một số lần. Năm 1933, học giả Nhật Bản là Matsumoto Nobuhiro (松本 信廣) đã nhờ ông George Cœdès làm trung gian để lấy được 6 kỷ đầu của bộ Thực lục và Liệt truyện từ triều đình Huế. Về Nhật năm 1935, Matsumoto Nobuhiro đã phân phát các bản Thực lục cho các đại học Tokyo, Kyoto, Toho Bunka Gakuin, Toyo Buno, Keio.[9] Đại học Keio đã cho xuất bản các tập thực lục từ năm 1961.[8] Tổng cộng có 20 tập sách.
Các tập chữ Hán Đại Nam thực lục xuất bản bởi Đại học Keio
Tên tập
Nội dung
Quyển
Năm xuất bản
01
Đại Nam thực lục tiền biên (trang 01-174)
Đại Nam liệt truyện tiền biên (trang 175-290)
01-12
01-06
1961
02
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 1 Gia Long
01-22
1963
03
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 1 Gia Long
23-61
1968
04
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập
01-33
1962
05
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
01-32
1971
06
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
33-60
1972
07
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
61-87
1973
08
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
88-115
1974
09
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
116-141
1974
10
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
142-170
1975
11
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
171-195
1975
12
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 2 Minh Mạng
196-221
1976
13
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 3 Thiệu Trị
01-34
1977
14
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 3 Thiệu Trị
35-73
1977
15
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 4 Tự Đức
01-17
1979
16
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 4 Tự Đức
18-35
1979
17
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 4 Tự Đức
36-52
1980
18
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 4 Tự Đức
53-71
1980
19
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 5 Kiến Phúc
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ phế đế Hàm Nghi
Đại Nam thực lục chính biên, Kỷ thứ 6 Đồng Khánh
01-04
05-08
01-12
1980
20
Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập
01-46
1981
Kỷ thứ 6 (phần bổ sung thêm) và kỷ thứ 7 được hoàn thành năm 1935 nhưng không được xuất bản. Sau thế chiến 2, các bản thảo thực lục được hoàn thành ở dinh Ngô Đình Diệm. Không rõ ai đã giữ các bản thảo sau cuộc đảo chính năm 1963. Có thể chính quyền Việt Nam tiếp nhận các bản thảo và giữ chúng cho đến nay.[3]
Bản dịch quốc ngữ đầu tiên
Năm 1897, Trương Vĩnh Ký đã dùng bản Thực lục do Duy Minh Thị in năm 1873 để biên soạn sách về Bá Đa Lộc. Nội dung sách gần như là một bản dịch rút gọn của thực lục.[15]
Vào năm 1962, Viện Sử học bắt đầu cho công bố bản dịch bộ Đại Nam thực lục, tập 1, phần Tiền biên, do Nhà xuất bản Sử học xuất bản. Sau đó đến năm 1978 (16 năm sau) thì phần Chính biên gồm 37 tập được hoàn thành với sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, kết thúc công việc xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục.
Bản dịch lần đầu bộ Đại Nam thực lục được chia thành 38 tập (khổ 13x19cm): trong đó Tiền biên 1 tập, Chính biên 37 tập (kỷ thứ nhất đến kỷ thứ 6).
Tái bản bản quốc ngữ
Năm 2001, Viện Sử học liên kết với nhà xuất bản Giáo dục bắt đầu tái bản bộ Đại Nam Thực lục Chính biên dưới dạng bộ sách nhiều tập bằng chữ quốc ngữ (tiếng Việt), tập đầu xuất bản vào năm 2002.
Đến cuối năm 2007 thì hoàn thành việc xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục (phần Tiền biên, Chính biên từ kỷ thứ nhất đến kỷ thứ 6).
Lần xuất bản thứ 2, bộ Đại Nam thực lục được dồn lại còn 10 tập (khổ 16x24cm):
Tập một, gồm: Tiền biên và Chính biên-Kỷ thứ nhất (từ 1558 đến 1819) do Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính.
Tập hai: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1820 đến 1829) do Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Phạm Huy Giu, Nguyễn Danh Chiên, Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Đỗ Mộng Khương dịch; Đào Duy Anh hiệu đính.
Tập ba: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1830 đến 1833) do Đỗ Mộng Khương, Trần Huy Hân, Trương Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Thế Đạt, Thẩm Văn Điền, Nguyễn Trọng Hân, Phạm Huy Giu dịch; Đào Duy Anh, Hoa Bằng hiệu đính.
Tập bốn: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1834 đến 1836) do Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Nguyễn Doanh Chiên, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Đỗ Mộng Khương dịch; Hoa Bằng hiệu đính.
Tập năm: Chính biên-Kỷ thứ hai (từ 1837 đến 1840) do Đỗ Mộng Khương, Phạm Huy Giu, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Nguyễn Mạnh Duân, Nguyễn Danh Chiên, Trương Văn Chinh dịch; Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.
Tập sáu: Chính biên-Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) do Cao Huy Giu, Trịnh Đình Rư, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân dịch; Hoa Bằng hiệu đính.
Tập bảy: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1848 đến 1873) do Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ngô Hữu Tạo, Phạm Huy Giu, Nguyễn Thế Đạt, Đỗ Mộng Khương, Trương Văn Chinh, Cao Huy Giu dịch; Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.
Tập tám: Chính biên-Kỷ thứ tư (từ 1877 đến 1883) do Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân, Đỗ Mộng Khương dịch. Cao Huy Giu; Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.
Tập chín: Chính biên-Kỷ thứ năm (từ 1883 đến 1885) do Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Nguyễn Mạnh Duân hiệu đính.
Tập mười: Chính biên-Kỷ thứ sáu (từ 1885 đến 1888) do Phạm Huy Giu, Trương Văn Chinh dịch; Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.
Chính biên-Kỷ thứ sáu phụ biên (từ 1889 đến 1916) do Cao Tự Thanh dịch và hiệu đính xuất bản (11/2011); chép về phế đế Thành Thái và phế đế Duy Tân.
Chính biên-Kỷ thứ bảy (từ 1916 đến 1925) do Cao Tự Thanh dịch và hiệu đính xuất bản (2012); chép về vua Khải Định Hoằng Tông Tuyên hoàng đế.
Chú thích
^Anh Tuấn Hoàng, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 2007 Page 276 "Đại Nam thực lục [Chronicle of Greater Vietnam], I (Hanoi: Giáo dục, 2002)."
Ngô Đức Thọ. 1997: Nghiên cứu chữ huy Việt Nam qua các triều đại / Les Caractères Interdits au Vietnam à Travers l'Histoire. traduit et annoté par Emmanuel Poisson, Hà Nội: Nxb Văn hoá.
Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế. 1992: Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam. In lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung, Sài Gòn: Nxb KHXH.